| 
                     ‘Doanh nghiệp chưa bao giờ chết nhiều như 2 năm qua’  Doanh nghiệp chưa bao giờ chết nhiều như 2 năm qua’
“Trong vòng 2 năm, dự báo có gần 100.000 doanh nghiệp 
rời thị trường, tương đương với một nửa số doanh nghiệp đóng cửa trong 
vòng 20 năm qua”, Chủ tịch VCCI – Vũ Tiến Lộc cho biết. >Doanh nghiệp thủy sản kêu cứu >Lao động mất việc hàng loạt
- Ông nhận định tình hình doanh nghiệp trong nước 
thế nào qua đợt khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 
(VCCI) tại TP HCM và một số địa phương? 
  |  
| Chủ tịch VCCI - Vũ Tiến Lộc cho rằng cần thêm các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp. Ảnh: Nhật Minh |   
- Khảo sát của VCCI vừa qua là chọn mẫu ở quy mô nhỏ, 
chúng tôi chủ yếu lắng nghe doanh nghiệp nhiều hơn. Do vậy, nếu thống kê
 thì ít có tính đại diện. Tuy nhiên, căn cứ vào những số liệu của cơ 
quan chức năng thì đến nay, có ít nhất 30% doanh nghiệp đã rời thị 
trường. 70% còn lại cũng hết sức khó khăn, phần lớn là thua lỗ. Thực tế 
cho thấy hầu hết doanh nghiệp sống được đến thời điểm này là nhờ “lương 
khô” - những gì họ tích lũy được từ nhiều năm. Nhưng nay lương khô có lẽ
 cũng cạn rồi. Nếu tình trạng khó khăn này kéo dài, tôi không nghĩ doanh
 nghiệp trụ được lâu. 
Theo dự báo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư thì năm nay 
có khoảng 50.000 doanh nghiệp rời thị trường, cộng với 49.000 của năm 
ngoái là xấp xỉ 100.000. Con số này tương đương với một nửa số doanh 
nghiệp “chết” trong vòng 20 năm qua, kể từ khi có Luật Doanh nghiệp. 
Chưa bao giờ doanh nghiệp lại chết nhiều như vậy. 
- Bên cạnh những khó khăn chung của nền kinh tế, 
theo ông, đâu là nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng bết bát của doanh 
nghiệp hiện nay? 
- Trước hết cần thừa nhận các chính sách kinh tế vừa 
qua đã tác động không nhỏ tới hoạt động của doanh nghiệp. Có nhiều vấn 
đề nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh tính minh bạch trong chính sách. Doanh
 nghiệp thực ra có sức sống rất bền bỉ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ 
đều có thể tìm cách sống được. Điều họ cần là tính khả đoán của chính 
sách, cũng như thông tin đầy đủ về thị trường. Ở Việt Nam trước nay làm 
việc này chưa tốt. 
Thứ hai là khả năng quản trị của chính doanh nghiệp. 
Qua khảo sát vừa rồi, chúng tôi thấy vẫn có một bộ phận sống rất tốt 
trong khủng hoảng. Họ đa phần là những công ty có quy mô vừa, được lãnh 
đạo bởi các doanh nhân trẻ, được đào tạo bài bản, quản trị tài chính 
tốt. Quan trọng hơn là họ tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính 
nhưng biết đa dạng hóa thị trường. Những trường hợp “chết” thì ngược 
lại, họ làm ngoài ngành nhiều nhưng thị trường thì lại bó hẹp. 
Một vấn đề nữa là các công ty nhỏ trước đây, mỗi lần 
kiếm được hợp đồng, làm thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn thì rất yên 
tâm. Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, khi các công trình do doanh nghiệp 
lớn làm gặp khó khăn, không minh bạch về tài chính, thì nhà thầu phụ bị 
kẹt vốn, khó khăn theo. Nhiều trường hợp đã “chết theo” những ông lớn. 
- Kể từ đầu năm đến nay, Chính phủ đã có nhiều 
biện pháp hỗ trợ nhằm “cứu” doanh nghiệp. Ông đánh giá như thế nào về 
kết quả của những chính sách này? 
- Không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được từ 
những chính sách vừa qua. Tuy nhiên, tôi thấy bản thân những chính sách 
này chủ yếu vẫn tập trung vào hỗ trợ chi phí, chẳng hạn như giãn - giảm 
thuế, cho hoãn các khoản phải nộp… Những biện pháp này là đúng nhưng 
chưa đủ. Chủ trương tái cơ cấu doanh nghiệp là có nhưng chưa thực hiện 
được nhiều. Tôi cho rằng cần đẩy mạnh việc làm này hơn nữa. 
Một vấn đề khác là lựa chọn đối tượng hỗ trợ. Hiện 
chúng ta mới tiến hành hỗ trợ chủ yếu theo lĩnh vực, theo quy mô trong 
khi việc lựa chọn thông qua năng lực cạnh tranh còn bị bỏ ngỏ. Điều này 
đã phần nào hạn chế hiệu quả của chính sách, bởi trong cùng một ngành, 
có nhiều doanh nghiệp chỉ gặp khó khăn tạm thời, vượt qua được sẽ phát 
triển mạnh hơn. Tuy nhiên cũng có những anh mà chỉ cần dứt hỗ trợ là 
chết. Những đối tượng như vậy cần phải thanh lọc qua khủng hoảng. 
- Vậy theo ông, cần phải làm thêm gì để hỗ trợ doanh nghiệp? 
- Tôi cho rằng cần làm 2 việc: không tạo thêm khó khăn
 và đưa doanh nghiệp tiến mạnh hơn vào quá trình tái cấu trúc. Để không 
tạo thêm khó khăn, tôi đồng ý là phải hỗ trợ chi phí, nhất là trong các 
khoản thuế và chính sách lương. Thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam 
hiện cao hơn so với các nước trong khu vực. Như Thái Lan, họ vừa giảm từ
 30% xuống 23%. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) đều đang áp 
thuế với khu vực vừa và nhỏ là 17%, trong khi ở Việt Nam hiện vẫn là 
25%. 
Tôi nghĩ cần phải giảm ngay mức thu này. Cụ thể bao 
nhiêu còn tuy thuộc vào ngân sách nhưng nếu có thể, nên đưa ngay xuống 
20%. Vừa qua cũng có ý kiến cho rằng giảm thuế vào lúc này không có 
nhiều ý nghĩa, bởi thực tế đâu có nhiều doanh nghiệp có lợi nhuận để 
đánh thuế. Tuy nhiên tôi cho rằng đây mới chính là lúc cần hỗ trợ số ít 
các doanh nghiệp đang có lãi, để họ có cơ hội tích lũy, đầu tư trong 
tương lai. 
Về lương, VCCI cùng một số hiệp hội ngành nghề lớn vừa
 có văn bản kiến nghị lên các cơ quan chức năng về lộ trình tăng lương 
tối thiểu. Chúng tôi đồng ý cần tăng lương để cải thiện đời sống người 
lao động. Tuy nhiên, đây là việc ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp nên 
cần tính toán kỹ, có lộ trình cụ thể cho trung hạn, thay vì cứ mỗi năm 
lại có mức tăng khác nhau. 
Cũng cần lưu ý rằng, tăng lương phải gắn với tăng năng
 suất lao động. Tốc độ tăng năng suất bình quân ở Việt Nam hiện là 4,5 –
 5% một năm, trong khi trung bình ASEAN là 10%. Do vậy, sau khi cân 
nhắc, chúng tôi đề xuất mức tăng lương 15% một năm, trong vòng 3 năm 
tới. Tăng ổn định như vậy thì doanh nghiệp mới tính toán, đưa vào kế 
hoạch sản xuất, kinh doanh được. Cuối cùng, như đã nói ở trên, tôi cho 
rằng cần đẩy mạnh hơn nữa quá trính tái cơ cấu, tăng cường tính minh 
bạch trong cả chính sách lẫn tại doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có thể 
giữ kín bí mật kinh doanh, nhưng tài chính thì phải công khai, rõ ràng. 
- Ở góc nhìn của cộng đồng doanh nghiệp, ông dự báo như thế nào về triển vọng kinh doanh thời gian tới? 
- Với tình hình hiện nay, tôi cho rằng doanh nghiệp sẽ
 còn khó khăn trong vòng 1- 2 năm tới. Bởi cho đến thời điểm hiện tại, 
tôi chưa thấy có nhân tố nào đột biến khi mà đầu tư công sẽ tiếp tục bị 
kiểm soát chặt, tiếp cận tín dụng khó khăn, thị trường chứng khoán ảm 
đạm trong khi vốn nước ngoài cũng huy động rất khó khăn. Tuy nhiên, nói 
như vậy không có nghĩa là không có ánh sáng. Bởi tình thế hiện nay đang 
buộc doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý thay đổi và tất nhiên, thay 
đổi này phải theo hướng tích cực hơn. 
Nhật Minh (ghi)  
  
 
      
                 |